Hotline 0909703706 - 028.37100638
27/2019/AL
Án lệ số 27/2019/AL về thụlý, giải quyết vụ án hành chính liên quan đến nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-1991
Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 22 tháng 8 năm 2019 và được công bố theo Quyết định số 293/QĐ-CA ngày 09 tháng 9 năm 2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
Nguồn án lệ:
Quyết định giám đốc thẩm số03/2018/HC-GĐTngày16-7-2018 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về vụ án hành chính “Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại” tại tỉnh TràVinh giữa người khởi kiện là bà Hồng Thị L với người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh.
Vị trí nội dung án lệ:
Đoạn 6 phần
“Nhận định của Toà án”.
Khái quát nội dung của án lệ:
-Tình huống án lệ: Người khởi kiện khởi kiệnquyết định hành chính có nội dung không chấp nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bốtrí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất trước ngày 01-7-1991theo quy định tại Nghị quyết số23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội mà quyết định đó đã được ban hành đúng thẩm quyền nội dung, trình tự thủ tục.
-Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải thụ lý để giải quyết theo hướng bác yêu cầu khởi kiện.
Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:
- Điều 94 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003;
- Điều 7 Luật Khiếu nại năm 2011;
- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 2 Điều 163 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 (tương ứng với khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính năm 2015);
- Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội vềnhà đất do Nhà nước đã quản lý, bốtrí sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-1991;
- Điều 5 Nghị quyết số755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02-4-2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủnghĩa trước ngày 01-7-1991;
2
- Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 127/NĐ-CP ngày 10-10-2005 của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Nghị Quyết số23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội.
Từ khoá của án lệ:
“Quyết định hành chính”; “Quyết định giải quyết khiếu nại”; Nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng”; “Chính sách vềquản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủnghĩa trước ngày 01-7-1991”
NỘI DUNG VỤ ÁN
Nguồn gốc căn nhà số 05 N, khóm 3, phường 2, thành phố T, tỉnh Trà Vinh là của cụ Hồng Sa R và cụ Trầm Thị N (là bố mẹ của bà Hồng Thị L) mua của cụ Nguyễn Thị K vào năm 1967 với diện tích 505m2. Năm 1969, ngôi nhà được ngăn thành 13 phòng sử dụng làm phòng ngủl ấy tên là Phòng ngủ Thống Nhất. Năm 1972, cụ N và cụ Hồng Sa R xây dựng thêm 01 dãy nhà lầu 03 tầng, 05 căn, 15 phòng ở phía sau với diện tích đất xây dựng là 77m2. Ngày 13-4-1976, cụ N được Ty thương nghiệp tỉnh Cửu Long cấp Giấy phép hành nghề số 548/TN/GP/ĐK về việc cho thuê mướn phòng ngủ Tháng 8 -1978, Công ty Khách sạn ăn uống thị xã Trà Vinh quản lý và tiếp tục kinh doanh phòng ngủ với hình thức chủ nhà làm nhân viên phục vụ và hưởng lương mỗi tháng.
Ngày 21-8-1984, Ủy ban nhân dân thịxã Trà Vinh ban hành Quyết định số35/QĐ-84 về việc quản lý toàn bộPhòng ngủ Thống Nhất đường N, phường 2, thị xã T, tỉnh Trà Vinh của cụ Hồng Sa Rvới nội dung: “Nay quản lý toàn bộ nhà và đất Phòng ngủ Thống Nhất đường N, phường 2, thịxã T của cụ Hồng Sa R, gồm phần nhà trước và dãy nhà phía sau, để cho 03 phòng trệt ởdãy phía sau cho cụ Hồng Sa R sử dụng”.Do hoạt động kinh doanh không hiệu quả, ngày 28-7-1985, Ủy ban nhân dân thịxã Trà Vinh ban hành Quyết định số59/QĐ-85 về việc phân phối nhà với nội dung: “Nay giao toàn bộ Phòng ngủ Thống Nhất, đường N, phường 2, thị xã T cho Ban Công nghiệp thị xã Trà Vinh”.
Năm 1990, Công ty Xuất nhập khẩu thị xã Trà Vinh giải thể, cụ Hồng Sa R vào chiếm lại và sử dụng.
Năm 1992, cụ Hồng Sa R có đơn xin lại căn nhà trên. Năm 1993, cụ Hồng Sa R chết, các con của cụtrong đó có bà Hồng Thị L tiếp tục quản lý và sử dụng căn nhà cho đến nay. Bà L có đơn xin được xem xét công nhận quyền sở hữu toàn bộ nhà, đất nêu trên
Ngày 27-7-2012, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành Quyết định số1350/QĐ-UBND vềviệc giải quyết khiếu nại của bà L như sau:
“Bác đơn khiếu nại của bà L yêu cầu hợp thức hóa toàn bộcăn nhà số05 đường N, khóm 3, phường 2, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.Bà L được mua lại căn nhà, đất theo địa chỉ số05 đường N theo quy định tại Nghị định số61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ”.
Ngày 13-8-2012, bà L có đơn khởi kiện đối với Quyết định số1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh.Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2015/HC-ST ngày 26-01-2015, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh quyết định: “Bác yêu cầu khởi kiện của bà Hồng Thị L yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh”.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 31-01-2015, bà Hồng Thị Lcó đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.
Tại Bản án hành chính phúc thẩm số175/2016/HC-PT ngày 25-11-2016, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:
“Chấp nhận đơn kháng cáo của bà Hồng ThịL.
Sửa Bản án sơ thẩm số02/2015/HCST ngày 26-01-2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh.Hủy Quyết định số1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh vềviệc giải quyết yêu cầu của bà Hồng Thị L, sinh năm 1964, ngụ tại số 05 N, khóm 3, phường 2, thành phốT, tỉnh Trà Vinh.
Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh có trách nhiệm ban hành Quyết định khác theo đúng quy định của pháp luật”.
Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.
Ngày 10-01-2017, Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh có Công văn số121/UBND-NC đề nghị xem xét theo thủtục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm số175/2016/HC-PT ngày 25-11-2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 23-02-2018, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao có Quyết định số05/2018/KN-HC kháng nghị Bản án hành chính phúc thẩm số175/2016/HC-PTngày 25-11-2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phốHồChí Minh; đề nghịHội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xửgiám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án hành chính phúc thẩm số175/2016/HC-PT ngày 25-11-2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố HồChí Minh và giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số02/2015/HCST ngày 26-01-2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh.Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với việc kháng nghịcủa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, nhưng đềnghịhội đồng xét xửhủy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm và đình chỉgiải quyết vụán vì căn cứvào Điều 1 Nghịquyết số23/2003/QH11 ngày 26-11-2006 của Quốc hội thì Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh không được quyền ra quyết định giải quyết yêu cầu hợp thức hóa căn nhà của bà Hồng Thị L.
4 NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:
[1]Vềtốtụng:Quyết định số1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủtịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh vềviệc giải quyết khiếu nại của bà Hồng ThịL được ban hành căn cứvào quy địnhtạiĐiều 1 Nghịquyết 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội vềnhà đất do Nhà nước đã quản lý, bốtrí sửdụng trong quá trình thực hiện chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủnghĩa trước ngày 01-7-1991, theo đó“Nhà nước không xem xét lại chủtrương, chính sách và việc thực hiện các chính sách vềquản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủnghĩa liên quan đến nhà đất đã ban hành trước ngày 01-7-1991. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý,bốtrí sửdụng trong quá trình thực hiện các chính sách vềquản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủnghĩa liên quan đến nhà đất”. Quyết định số1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủtịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinhcó nội dung làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của bà Hồng ThịL. Do đó, theo quy định tại Điều 3 và Điều 28 Luật Tốtụng hành chính năm 2010 thì Quyết định số1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 là quyết định hành hính và là đối tượng khởi kiện vụán hành chínhnên việc Tòa án cấp sơ thẩm thụlý giải quyết vụán là đúng thẩm quyền.[2] Vềnội dung:[3] Căn nhà số05 N, phường 2, thành phốT, tỉnh Trà Vinh mà hiện nay bà L đang quản lý, sửdụng có nguồn gốc là của gia đình bà L. Tuy nhiên, ngày 21-8-1984, Ủy ban nhân dân thịxã Trà Vinhđã ban hành Quyết định số35/QĐ-84 với nội dung: “Nay quản lý toàn bộnhà và đất Phòng ngủThống Nhất đường N, phường II, thịxã T của cụHồng Sa R. Gồm phần nhà trước và dãy nhà lầu phía sau. Đểcho03 phòng trệt dãy lầu phía sau cho cụHồng Sa R sửdụng...” và ngày 28-7-1985 Ủy ban nhân dân thịxã Trà Vinhban hành Quyết định số59/QĐ-85 vềviệc giao toàn bộPhòng ngủThống Nhất cho Ban Công nghiệp thịxã Trà Vinhquản lý. Năm 1988, khi còn sống cụHồng Sa R đã có đơn yêu cầu được nhận lại căn nhà nêu trên. Tuy nhiên, tại Công văn số01/PĐ-88 ngày 08-01-1988 của Ủy ban nhân dân thịxã Trà Vinhvà Công văn số02/TT-NĐ ngày 05-11-1988 của Ủy ban nhân dân tỉnh Cửu Long đã trảlời không chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà của cụHồng Sa R vì nhà thuộc diện cải tạo. Không đồng ý với việc giải quyết của Ủy ban nhân dân tỉnh Cửu Long, cụHồng Sa R có nhiều đơn khiếu nại. Sau khi cụHồng Sa R chết, bà Hồng ThịL tiếp tục khiếu nại. [4] Tại Công văn số358/BXD-TTr ngày 26-02-2007, BộXây dựng đã có ý kiến đối với trường hợp khiếu nại của bà L như sau: “Tuy căn nhà nói trên do cụHồng Sa R trực tiếp sửdụng nhưng trước đó Nhà nước đã có quyết định quản lý căn nhà này và thực tếđã bốtrí sửdụng từsau giải phóng chođến khi gia đình cụHồng Sa R vào chiếm lại (năm 1990). Vì vậy, BộXây dựng nhất trí với dựkiến của Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh là cho gia đình cụHồng Sa R được ký hợp đồng thuê căn nhà số05 đường N với Nhà nước, sau đó, nếu gia đình cụRcó
5nhu cầu thì được mua lại căn nhà này theo Nghịđịnh số61/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ”.[5] Như vậy, thông qua việc ban hành Quyết định số35/QĐ-84 ngày 21-8-1984và Quyết định số59/QĐ-85 ngày 28-7-1985 của Ủy ban nhân dân thịxã Trà Vinh, xác định: “Nhà nước đã quản lý, bốtrí sửdụng trong quá trình thực hiện các chính sách vềquản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủnghĩa liên quan đến nhà đất” theo quy định tại Điều 1 Nghịquyết số23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội vềnhàđất do Nhà nước quản lý, bốtrí sửdụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủnghĩa trước ngày 01-7-1991. Vì vậy, việc bà L khiếu nại đòi lại căn nhà số05 đường N là không có cơ sởchấp nhận. Chủtịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành Quyết định số1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 không chấp nhận yêu cầu của bà L là đúng quy định của pháp luật.[6] Đối với những trường hợp người khởi kiện quyết định hành chính của cơ quan có thẩm quyền, trong đó có nội dung không chấp nhận yêu cầu đòilại nhà đất mà Nhà nước đã có quyếtđịnh quản lý, bốtrí sửdụng trong quá trình thực hiện các chính sách vềquản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủnghĩa liên quan đến nhà đất trước ngày 01-7-1991 theo quy định tại Điều 1 Nghịquyết số23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội mà quyết định đó đã được ban hành đúng thẩm quyền, nội dung, trình tựthủtục thì Tòa án phải thụlý đểgiải quyết, nhưng theo hướng “Bác yêu cầu khởi kiện” theo điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tốtụng hành chính. Vì vậy, trong vụán hành chính này Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của bà Hồng ThịL yêu cầu hủy Quyết định số1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012, của Chủtịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh là có căn cứ, đúng pháp luật.[7] Quyết định số1350/QĐ-UBND nêu trên còn quyết định:“Bà Hồng ThịL được mua lại căn nhà, đất địa chỉsố05 đường N, khóm 3, phường 2, thành phốT, tỉnh Trà Vinh theo quy định tại Nghịđịnh số61/CP ngày5-7-1994 của Chính phủ”. Như vậy, việcchobà L được mua lại căn nhà, đất nêu trên theo quy định của Nghịđịnh số61/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủlà đã đảm bảo quyền lợi cho gia đình bà L.[8] Tòa án cấp phúc thẩm căn cứtheo khoản 1 Điều 4 Nghịđịnh số127/NĐ-CP ngày 10-10-2005 của Chính phủhướng dẫn thực hiện Nghịquyết số23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội và Điều 5 Nghịquyết số755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02-4-2005 của Ủy ban Thường vụQuốc hội đểtừđó chấp nhận yêu cầu kháng cáo của bà L, hủy Quyết định số1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủtịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh là sai lầm trong việc áp dụng pháp luật. [9] Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao tại phiên tòa giám đốc thẩm là không có cơ sởchấp nhận; bởi lẽcăn cứcác quy định tại Điều 94 Luật Tổchức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003, Điều 7 Luật Khiếu nại năm 2011 thì Chủtịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành quyết định giải quyết khiếu nại của bà Hồng ThịLlà đúng quy định của pháp luật.
6 Vì các lẽ trên,
QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 2 Điều 266, khoản 2 Điều 272 và khoản 2 Điều 274 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;1. Chấp nhận Kháng nghị số 05/2018/KN-HC ngày 23-02-2018 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.2. Hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 175/2016/HC-PT ngày 25-11-2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2015/HCST ngày 26-01-2015 của Tòa án nhân dân tỉnhTrà Vinh.NỘI DUNG ÁN LỆ
“[6] Đối với những trường hợp người khởi kiện quyết định hành chính của cơ quan có thẩm quyền, trong đó có nội dung không chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã có quyếtđịnh quản lý, bốtrí sửdụng trong quá trình thực hiện các chính sách vềquản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủnghĩa liên quan đến nhà đất trước ngày 01-7-1991 theo quy định tại Điều 1 Nghịquyết số23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội mà quyết định đó đã được ban hành đúng thẩm quyền, nội dung, trình tự thủtục thì Tòa án phải thụl ý để giải quyết, nhưng theo hướng “Bác yêu cầu khởi kiện” theo điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính...”
Buổi sáng từ 07:30
Buổi chiều từ 13:30
0909703706 - 028.37100638
0938434389