ÁN LỆ 27 /Án lệ số 27/2019/AL (HÀNH CHÍNH)

L18-11-13, F.18, Vincom Center Đồng Khởi, 72, Lê Thánh Tôn, P. Bến Nghé, Q.1, TP. HCM

Hotline 0909703706 - 028.37100638

ÁN LỆ 27 /Án lệ số 27/2019/AL (HÀNH CHÍNH)

27/2019/AL

Án lệ số 27/2019/AL về thụlý, giải quyết vụ án hành chính liên quan đến nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-1991

Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thông qua ngày 22 tháng 8 năm 2019 và được công bố theo Quyết định số 293/QĐ-CA ngày 09 tháng 9 năm 2019 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.

Nguồn án lệ:

 Quyết định giám đốc thẩm số03/2018/HC-GĐTngày16-7-2018 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao về vụ án hành chính “Khiếu kiện quyết định giải quyết khiếu nại” tại tỉnh TràVinh giữa người khởi kiện là bà Hồng Thị L với người bị kiện là Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh.

Vị trí nội dung án lệ:

Đoạn 6 phần

“Nhận định của Toà án”.

Khái quát nội dung của án lệ:

-Tình huống án lệ: Người khởi kiện khởi kiệnquyết định hành chính có nội dung không chấp nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý, bốtrí sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách về quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa liên quan đến nhà đất trước ngày 01-7-1991theo quy định tại Nghị quyết số23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội mà quyết định đó đã được ban hành đúng thẩm quyền nội dung, trình tự thủ tục.

 -Giải pháp pháp lý: Trường hợp này, Tòa án phải thụ lý để giải quyết theo hướng bác yêu cầu khởi kiện.

Quy định của pháp luật liên quan đến án lệ:

- Điều 94 Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm 2003;

- Điều 7 Luật Khiếu nại năm 2011;

- Khoản 1 Điều 28, điểm a khoản 2 Điều 163 Luật Tố tụng hành chính năm 2010 (tương ứng với khoản 1 Điều 30, điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính năm 2015);

- Điều 1 Nghị quyết số 23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội vềnhà đất do Nhà nước đã quản lý, bốtrí sử dụng trong quá trình thực hiện chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủ nghĩa trước ngày 01-7-1991;

- Điều 5 Nghị quyết số755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02-4-2005 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định việc giải quyết đối với một số trường hợp cụ thể về nhà đất trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủnghĩa trước ngày 01-7-1991;

2

            - Khoản 1 Điều 4 Nghị định số 127/NĐ-CP ngày 10-10-2005 của Chính phủ hướng dẫn thực hiện Nghị Quyết số23/2003/QH11 ngày 26-11-2003  của Quốc hội.

Từ khoá của án lệ:

“Quyết định hành chính”; “Quyết định giải quyết khiếu nại”; Nhà đất do Nhà nước đã quản lý, bố trí sử dụng”; “Chính sách vềquản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủnghĩa trước ngày 01-7-1991”

 

NỘI DUNG VỤ ÁN

 

Nguồn gốc căn nhà số 05 N, khóm 3, phường 2, thành phố T, tỉnh Trà Vinh là của cụ Hồng Sa R và cụ Trầm Thị N (là bố mẹ của bà Hồng Thị L) mua của cụ Nguyễn Thị K vào năm 1967 với diện tích 505m2. Năm 1969, ngôi nhà được ngăn thành 13 phòng sử dụng làm phòng ngủl ấy tên là Phòng ngủ Thống Nhất. Năm 1972, cụ N và cụ Hồng Sa R xây dựng thêm 01 dãy nhà lầu 03 tầng, 05 căn, 15 phòng ở phía sau với diện tích đất xây dựng là 77m2. Ngày 13-4-1976, cụ N được Ty thương nghiệp tỉnh Cửu Long cấp Giấy phép hành nghề số 548/TN/GP/ĐK về việc cho thuê mướn phòng ngủ Tháng 8 -1978, Công ty Khách sạn ăn uống thị xã Trà Vinh quản lý và tiếp tục kinh doanh  phòng  ngủ với hình thức chủ nhà làm nhân viên phục vụ và hưởng lương mỗi tháng.

 Ngày 21-8-1984, Ủy ban nhân dân thịxã Trà Vinh ban hành Quyết định số35/QĐ-84 về việc quản lý toàn bộPhòng ngủ Thống Nhất đường N, phường 2, thị xã T, tỉnh Trà Vinh của cụ Hồng Sa Rvới nội dung: “Nay quản lý toàn bộ nhà và đất Phòng ngủ Thống Nhất đường N, phường 2, thịxã T của cụ Hồng Sa R, gồm  phần nhà trước và dãy nhà phía sau, để cho  03  phòng  trệt ởdãy  phía sau cho cụ Hồng Sa R sử dụng”.Do hoạt động kinh doanh không hiệu quả, ngày 28-7-1985, Ủy ban nhân dân  thịxã  Trà Vinh ban hành  Quyết định  số59/QĐ-85  về việc  phân  phối  nhà với nội dung: “Nay giao toàn bộ Phòng ngủ Thống Nhất, đường N, phường 2, thị xã T cho Ban Công nghiệp thị xã Trà Vinh”.

Năm 1990, Công ty Xuất nhập khẩu thị xã Trà Vinh giải thể, cụ Hồng Sa R vào chiếm lại và sử dụng.

 Năm 1992, cụ Hồng Sa R có đơn xin lại căn nhà trên. Năm 1993, cụ Hồng Sa R chết, các con của cụtrong đó có bà Hồng Thị L tiếp tục quản lý và sử dụng căn nhà cho đến nay. Bà L có đơn xin được xem xét công nhận quyền sở hữu toàn bộ nhà, đất nêu trên

Ngày 27-7-2012, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành Quyết định số1350/QĐ-UBND vềviệc giải quyết khiếu nại của bà L như sau:

Bác đơn khiếu nại của bà L yêu cầu hợp thức hóa toàn bộcăn nhà số05 đường N, khóm 3, phường 2, thành phố T, tỉnh Trà Vinh.Bà L được mua lại căn nhà, đất theo địa chỉ số05 đường N theo quy định tại Nghị định số61/CP ngày 05-7-1994 của Chính phủ”.

Ngày 13-8-2012, bà L có đơn khởi kiện đối với Quyết định số1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh.Tại Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2015/HC-ST ngày 26-01-2015, Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh quyết định: “Bác yêu cầu khởi kiện của bà Hồng Thị L yêu cầu Tòa án hủy Quyết định số 1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh”.

Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định  về án  phí  và  quyền  kháng cáo của các đương sự.

Ngày 31-01-2015, bà Hồng Thị Lcó đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.

Tại Bản án hành chính phúc thẩm số175/2016/HC-PT ngày 25-11-2016, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh quyết định:

“Chấp nhận đơn kháng cáo của bà Hồng ThịL.

Sửa Bản án sơ thẩm số02/2015/HCST ngày 26-01-2015 của Tòa án nhân dân tỉnh Trà Vinh.Hủy Quyết định số1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh vềviệc giải quyết yêu cầu của bà Hồng Thị L, sinh năm 1964, ngụ tại số 05 N, khóm 3, phường 2, thành phốT, tỉnh Trà Vinh.

Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh có trách nhiệm ban hành Quyết định khác theo đúng quy định của pháp luật”.

Ngoài ra, Tòa án cấp phúc thẩm còn quyết định về án phí.

Ngày 10-01-2017, Ủy  ban  nhân  dân  tỉnh  Trà  Vinh  có  Công  văn  số121/UBND-NC đề nghị xem  xét  theo  thủtục giám đốc  thẩm đối  với Bản  án hành  chính  phúc  thẩm  số175/2016/HC-PT  ngày  25-11-2016  của  Tòa  án  nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày  23-02-2018,  Chánh  án  Tòa  án  nhân  dân  tối  cao  có  Quyết định  số05/2018/KN-HC kháng nghị Bản án hành chính phúc thẩm số175/2016/HC-PTngày 25-11-2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phốHồChí Minh; đề nghịHội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xửgiám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án hành chính phúc thẩm số175/2016/HC-PT ngày 25-11-2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố HồChí Minh và giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm  số02/2015/HCST  ngày  26-01-2015  của  Tòa  án  nhân  dân tỉnh Trà Vinh.Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao nhất trí với việc kháng nghịcủa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, nhưng đềnghịhội đồng xét xửhủy bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm và đình chỉgiải quyết vụán vì căn cứvào Điều  1  Nghịquyết  số23/2003/QH11  ngày  26-11-2006  của Quốc  hội  thì  Chủ tịch Ủy  ban  nhân  dân  tỉnh Trà Vinh không được  quyền  ra quyết định giải quyết yêu cầu hợp thức hóa căn nhà của bà Hồng Thị L.

4 NHẬN ĐỊNH CỦA TOÀ ÁN:

[1]Vềtốtụng:Quyết định số1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủtịch Ủy  ban  nhân  dân  tỉnh  Trà  Vinh  vềviệc  giải  quyết  khiếu  nại  của  bà  Hồng ThịL được ban hành căn cứvào quy địnhtạiĐiều 1 Nghịquyết 23/2003/QH11 ngày  26-11-2003 của  Quốc  hội  vềnhà đất do Nhà nước đã quản  lý,  bốtrí  sửdụng trong quá trình thực hiện chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã  hội  chủnghĩa trước  ngày  01-7-1991, theo đó“Nhà nước  không  xem  xét  lại chủtrương, chính sách và việc thực hiện các chính sách vềquản lý nhà đất và chính  sách  cải  tạo  xã  hội  chủnghĩa liên quan đến nhà đất đã ban hành trước ngày 01-7-1991. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã quản lý,bốtrí sửdụng trong quá trình thực hiện các chính sách vềquản lý nhà đất  và chính sách  cải tạo  xã  hội  chủnghĩa liên quan đến nhà đất”. Quyết định  số1350/QĐ-UBND  ngày  27-7-2012  của  Chủtịch Ủy  ban  nhân  dân  tỉnh Trà Vinhcó nội dung làm phát sinh, thay đổi, hạn chế, chấm dứt quyền, lợi ích hợp pháp của bà Hồng ThịL. Do đó, theo quy định tại Điều 3 và Điều 28 Luật Tốtụng hành chính năm 2010 thì Quyết định số1350/QĐ-UBND  ngày  27-7-2012 là  quyết định hành hính và là đối  tượng  khởi  kiện  vụán  hành  chínhnên việc Tòa án cấp sơ thẩm thụlý giải quyết vụán là đúng thẩm quyền.[2] Vềnội dung:[3] Căn nhà số05 N, phường 2, thành phốT, tỉnh Trà Vinh mà hiện nay bà L đang quản lý, sửdụng có nguồn gốc là của gia đình bà L. Tuy nhiên, ngày 21-8-1984, Ủy ban nhân dân thịxã Trà Vinhđã ban hành Quyết định số35/QĐ-84  với  nội  dung: “Nay quản  lý  toàn  bộnhà và đất  Phòng  ngủThống  Nhất đường N, phường  II,  thịxã  T  của  cụHồng  Sa  R.  Gồm  phần nhà trước  và  dãy nhà lầu phía sau. Đểcho03 phòng trệt dãy lầu phía sau cho cụHồng Sa R sửdụng...” và ngày 28-7-1985 Ủy ban nhân dân thịxã Trà  Vinhban hành Quyết định  số59/QĐ-85  vềviệc  giao  toàn  bộPhòng  ngủThống  Nhất  cho  Ban  Công nghiệp  thịxã  Trà  Vinhquản lý. Năm 1988, khi còn sống  cụHồng Sa R đã có đơn yêu cầu được nhận lại căn nhà nêu trên. Tuy nhiên, tại Công văn số01/PĐ-88  ngày  08-01-1988  của Ủy  ban  nhân  dân  thịxã  Trà  Vinhvà Công văn số02/TT-NĐ ngày 05-11-1988  của Ủy  ban  nhân  dân  tỉnh  Cửu Long đã trảlời không  chấp  nhận  yêu  cầu đòi lại  nhà  của  cụHồng  Sa  R  vì  nhà  thuộc  diện  cải tạo. Không đồng ý với việc giải quyết của Ủy ban nhân dân tỉnh Cửu Long, cụHồng Sa R có nhiều đơn khiếu nại. Sau khi cụHồng Sa R chết, bà Hồng ThịL tiếp tục khiếu nại. [4] Tại Công văn số358/BXD-TTr ngày 26-02-2007, BộXây dựng đã có ý kiến đối với trường hợp khiếu nại của bà L như sau: “Tuy căn nhà nói trên do cụHồng Sa R trực tiếp sửdụng nhưng trước đó Nhà nước đã có quyết định quản lý căn nhà này và thực tếđã bốtrí sửdụng từsau giải phóng chođến khi gia đình cụHồng  Sa  R  vào  chiếm  lại (năm 1990). Vì vậy,  BộXây  dựng  nhất  trí  với  dựkiến của Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh là cho gia đình cụHồng Sa R được ký hợp đồng thuê căn nhà số05 đường N với Nhà nước, sau đó, nếu gia đình cụRcó

5nhu cầu thì được mua lại căn nhà này theo Nghịđịnh số61/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủ”.[5] Như vậy,  thông  qua  việc  ban  hành  Quyết định  số35/QĐ-84  ngày 21-8-1984và Quyết định số59/QĐ-85 ngày 28-7-1985 của Ủy ban nhân dân thịxã Trà Vinh, xác định: “Nhà nước đã quản lý, bốtrí sửdụng trong quá trình thực hiện  các  chính  sách  vềquản lý nhà đất  và  chính  sách  cải  tạo  xã  hội  chủnghĩa liên quan đến nhà đất” theo quy định  tại Điều  1  Nghịquyết  số23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội vềnhàđất do Nhà nước quản lý, bốtrí sửdụng trong quá trình thực hiện các chính sách quản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủnghĩa trước ngày 01-7-1991. Vì vậy, việc bà L khiếu nại đòi lại căn nhà số05 đường N là không có cơ sởchấp nhận. Chủtịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh  ban  hành  Quyết định  số1350/QĐ-UBND  ngày  27-7-2012  không  chấp nhận yêu cầu của bà L là đúng quy định của pháp luật.[6] Đối với những trường hợp người khởi kiện quyết định hành chính của cơ quan có thẩm quyền, trong đó có nội dung không chấp nhận yêu cầu đòilại nhà đất mà Nhà nước đã có quyếtđịnh  quản  lý,  bốtrí  sửdụng  trong quá  trình thực  hiện  các  chính  sách  vềquản lý nhà đất  và  chính  sách  cải  tạo  xã  hội  chủnghĩa liên quan đến nhà đất trước ngày 01-7-1991 theo quy định tại Điều 1 Nghịquyết  số23/2003/QH11  ngày  26-11-2003  của  Quốc  hội  mà quyết định đó đã được ban hành đúng thẩm quyền, nội dung, trình tựthủtục thì Tòa án phải thụlý đểgiải quyết, nhưng theo hướng “Bác yêu cầu khởi kiện” theo điểm a khoản 2 Điều 193 Luật Tốtụng hành chính. Vì vậy, trong vụán hành chính này Tòa án cấp sơ thẩm bác yêu cầu khởi kiện của bà Hồng ThịL yêu cầu hủy Quyết định số1350/QĐ-UBND  ngày 27-7-2012, của  Chủtịch Ủy  ban  nhân  dân  tỉnh  Trà Vinh là có căn cứ, đúng pháp luật.[7]  Quyết định  số1350/QĐ-UBND  nêu  trên  còn  quyết định:“Bà Hồng ThịL được  mua  lại căn nhà, đất địa  chỉsố05 đường N, khóm 3, phường  2, thành phốT, tỉnh Trà Vinh theo quy định tại Nghịđịnh số61/CP ngày5-7-1994 của Chính phủ”. Như vậy, việcchobà L được mua lại căn nhà, đất nêu trên theo quy định của Nghịđịnh số61/CP ngày 5-7-1994 của Chính phủlà đã đảm bảo quyền lợi cho gia đình bà L.[8]  Tòa  án  cấp  phúc  thẩm căn cứtheo  khoản 1 Điều  4  Nghịđịnh  số127/NĐ-CP ngày 10-10-2005 của Chính phủhướng dẫn thực hiện Nghịquyết số23/2003/QH11  ngày  26-11-2003  của  Quốc  hội  và  Điều  5  Nghịquyết  số755/2005/NQ-UBTVQH11 ngày 02-4-2005 của Ủy ban Thường vụQuốc hội đểtừđó chấp  nhận  yêu  cầu  kháng  cáo  của  bà  L,  hủy  Quyết định  số1350/QĐ-UBND ngày 27-7-2012 của Chủtịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh là sai lầm trong việc áp dụng pháp luật. [9] Quan điểm  của đại  diện  Viện  kiểm  sát  nhân  dân  tối  cao  tại  phiên  tòa giám đốc thẩm là không có cơ sởchấp nhận; bởi lẽcăn cứcác quy định tại Điều 94 Luật  Tổchức  Hội đồng  nhân  dân  và Ủy ban nhân dân năm 2003, Điều  7  Luật Khiếu nại năm 2011 thì Chủtịch Ủy ban nhân dân tỉnh Trà Vinh ban hành quyết định giải quyết khiếu nại của bà Hồng ThịLlà đúng quy định của pháp luật.

6 Vì các lẽ trên,

 

QUYẾT ĐỊNH:

Căn cứ khoản 2 Điều 266, khoản 2 Điều 272 và khoản 2 Điều 274 Luật Tố tụng hành chính năm 2015;1. Chấp  nhận  Kháng  nghị  số  05/2018/KN-HC  ngày  23-02-2018  của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.2. Hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 175/2016/HC-PT  ngày  25-11-2016 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh; giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 02/2015/HCST ngày 26-01-2015 của Tòa án nhân dân tỉnhTrà Vinh.NỘI DUNG ÁN LỆ

“[6] Đối  với  những trường  hợp người  khởi  kiện quyết định  hành  chính của cơ quan có thẩm quyền, trong đó có nội dung không chấp nhận yêu cầu đòi lại nhà đất mà Nhà nước đã có quyếtđịnh  quản  lý,  bốtrí  sửdụng  trong  quá trình thực hiện các chính sách vềquản lý nhà đất và chính sách cải tạo xã hội chủnghĩa liên quan đến nhà đất trước ngày 01-7-1991 theo quy định tại Điều 1 Nghịquyết số23/2003/QH11 ngày 26-11-2003 của Quốc hội mà quyết định đó đã được ban hành đúng thẩm quyền, nội dung, trình tự thủtục thì Tòa án phải thụl ý để giải  quyết, nhưng theo hướng “Bác yêu cầu  khởi  kiện” theo điểm  a khoản 2 Điều 193 Luật Tố tụng hành chính...”



Ngày Đăng: 28-03-2022
Thời gian làm việc

Buổi sáng từ 07:30

Buổi chiều từ 13:30

Hotline hỗ trợ
Hotline luật sư

0909703706 - 028.37100638

0938434389

Bài viết khác
ÁN LỆ 02 /Án lệ số 02/2016/AL (DÂN SỰ- TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN)

ÁN LỆ 02 /Án lệ số 02/2016/AL (DÂN SỰ- TRANH CHẤP ĐÒI LẠI TÀI SẢN)

Tranh chấp đòi lại tài sản có yếu tố nước ngoài (cụ thể người VN định cư ở nước ngoài)
ÁN LỆ SỐ 03/2016/AL (Hôn nhân - gia đình)

ÁN LỆ SỐ 03/2016/AL (Hôn nhân - gia đình)

Hôn nhân gia đình, Ly hôn, tài sản chung, tài sản được tặng cho
ÁN LỆ SỐ 04/2016/AL (TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CNQSDĐ)

ÁN LỆ SỐ 04/2016/AL (TRANH CHẤP HỢP ĐỒNG CNQSDĐ)

“Tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất”; “Định đoạt tài sản chung của vợ chồng”; “Xác lập quyền sở hữu theo thỏa thuận”.
ÁN LỆ SỐ 05/2016/AL (THỪA KẾ- TRANH CHẤP DI SẢN)

ÁN LỆ SỐ 05/2016/AL (THỪA KẾ- TRANH CHẤP DI SẢN)

Tranh chấp di sản thừa kế, đóng góp công sức quản lý, tôn tạo
ÁN LỆ SỐ 06/2016 (DÂN SỰ- THỪA KẾ- TRANH CHẤP DI SẢN

ÁN LỆ SỐ 06/2016 (DÂN SỰ- THỪA KẾ- TRANH CHẤP DI SẢN

Người thừa kế ở nước ngoài chưa rõ địa chỉ, uỷ thác tư pháp
ÁN LỆ 10 /Án lệ số 10/2016/AL (HÀNH CHÍNH)

ÁN LỆ 10 /Án lệ số 10/2016/AL (HÀNH CHÍNH)

Khiếu kiện Quyết định bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất

Đăng kí ngay nhận ngay thông tin mới nhất

Công ty Luật TNHH Ocean Stars Lawyers

Hotline: 0909703706

Kết nối với chúng tôi :
© 2020 @ Công ty Luật TNHH Ocean Stars Lawyers - Designed by Nina
Đang Online: 52   Tổng: 66811